KHOẢNH KHẮC NGẮN – DƯ ÂM DÀI
Với bạn, giây phút nào là có thể coi là thời khắc “đáng giá” trong cuộc đời bạn? Khi ta còn trẻ, câu trả lời thường là những cột mốc rực rỡ, những thành công chạm đến điều mình mong ước. Nhưng khi năm tháng dần trôi, ta mới nhận ra rằng thời gian luôn âm thầm lấy đi nhiều hơn những gì ta kịp nắm giữ. Cuối cùng, thứ thật sự còn lại, neo giữ tâm hồn ta giữa dòng đời hối hả, chính là những kỷ niệm - những mảnh ghép vụn vặt nhưng ấm áp ấy chính là thứ khiến con người ta mỉm cười giữa dòng đời bận rộn.
Và có lẽ, trong những mảnh ký ức ấy, thời học sinh là nơi chứa đựng nhiều cái “đáng giá” nhất. Đó là khoảng thời gian ta vô lo vô nghĩ, sống vì hiện tại, cuộc sống chỉ có lời trêu chọc của bạn bè và tiếng cười hoà vào khoảng sân đầy nắng. Mái trường là nơi lưu giữ ký ức của thuở thiếu thời, cũng là nơi chứng kiến vẻ đẹp của sự đơn giản, ngây ngô và những phút hiếu thắng cuối cùng của đời người.
Mỗi người đều giữ trong mình những kỷ niệm riêng, được cất kín trong bảo tàng trái tim. Và tôi cũng vậy, Hôm nay, kỷ niệm về hội diễn “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” - nơi tập thể lớp tôi lần đầu đứng dưới ánh đèn, với vở kịch “Chiếc Lược Ngà” đã mang theo khát vọng và tình cảm lên sân khấu gửi đến hàng trăm khán giả trong ngôi nhà chung Thăng Long.
Câu chuyện bắt đầu khoảng đầu tháng năm, sau thời gian thi học kì căng thẳng. Tiết Văn ngày hôm ấy đã là những tiết cuối cùng của năm học. Nắng vàng tươi chiếu trên những phiến lá dần thay bằng cái nóng đổ lửa của mùa hạ.Tôi chống cằm lên bàn, suy nghĩ miên man bay theo gió: “Hôm nay sẽ học gì? Cô có cho xem phim chuyển thể từ tác phẩm không ta?”. Tuy nhiên, xuất hiện trên máy chiếu lại không phải những slide powerpoint quen thuộc, không phải tên bài quen thuộc, không phải một bộ phim điện ảnh. Thay cho những điều ấy là một tờ poster, có dòng chữ “Sân khấu hoá tác phẩm văn học”. Những tiếng “ồ”, ”wow” vang lên khắp lớp học. Tôi tỉnh cả ngủ, ngồi hẳn dậy, dụi mắt mấy lần. Tiếng thông báo, phổ biến của cô Diệu Ly - cô dạy môn Văn của chúng tôi vang lên rõ ràng, rành mạch: “Nhà trường phát động cuộc thi chuyển thể các tác phẩm văn học thành các vở diễn nhằm mục đích truyền tải những thông điệp ý nghĩa, sâu sắc. Vậy các em suy nghĩ, lựa chọn xem sẽ diễn tác phẩm nào?”. Không gian rơi vào im ắng và trầm tư, rồi lại sôi nổi trở lại. Những cách tay giơ cao liên tục. Có bạn đề xuất “Nàng Bạch Tuyết và Bảy chú lùn” với ước hoá thân thành cô công chúa xinh đẹp. Có bạn lại đề xuất “Bà tôi” - một tác phẩm nói về chữ hiếu trong xã hội. Lần lượt, hàng loạt cái tên vang lên, nhưng không có cái tên nào thực sự “chạm” đến tim tôi. Nhưng rồi, một cái tên chợt loé lên trong đầu, chẳng suy nghĩ gì tôi nhanh nhảu giơ tay. Khi cái tên “Chiếc lược ngà” được thốt ra, chính tôi cũng bất ngờ. Tôi ngồi xuống khi chưa load được chuyện gì. “Mình vừa làm gì thế này!”. Sau phần đề cử là biểu quyết bằng hình thức giơ tay. Một điều ngạc nhiên rằng tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tôi trúng cử với 26 cánh tay, trở thành sự lựa chọn của chúng tôi cho cuộc thi này. Điều ấy khiến tôi vừa mừng, vừa lo.
Cuối cùng, việc viết kịch bản được giao cho tôi. Ngồi trên chiếc bàn học của mình, lần đầu tiên tôi loay hoay đến thế. “Nên viết gì bây giờ?” câu hỏi ấy luẩn quẩn trong đầu, những ngón tay cứ hạ xuống lại nâng lên. Để rồi, khi lời thoại đầu tiên hoàn thành, những câu từ khác cứ nối nhau tuôn theo, như đê vỡ, như thác tuôn. Tôi đem tất cả những hình ảnh mình tưởng tưởng viết thành con chữ: một cô bé Thu 8 tuổi mới lần đầu được gặp ba- nhưng lần đầu cũng là lần cuối; người vợ tần tảo bao năm tháng đợi chồng nhưng sự chờ đợi ấy đổi lại chỉ là tin chồng đã hi sinh; để rồi kết lại bằng một mầm non sức sống vươn lên, tiếp bước cha của bé Thu. Kịch bản viết xong mà tôi cảm thấy vô cùng lo lắng. Chúng tôi phải giữ nguyên cốt truyện, được phép sáng tạo nhưng phải truyền tải được thông điệp của tác phẩm. Kịch bản rất hay nhưng tôi không biết và cũng không chắc mình hiểu tác phẩm sâu sắc chưa, lại càng lo hơn khi các bạn sẽ diễn xuất thế nào để mà ra được tâm lí và nội tâm nhân vật ?
Ngày hôm sau, trước tiếp Văn, lòng tôi như lửa đốt. Khi tiếng nói xác nhận kịch bản không có vấn đề gì trái tim tôi mới được thả xuống.Tiếp theo chúng tôi chọn diễn viên. Đó là những gương mặt sáng giá. Cô giáo phân công công việc cho từng nhóm, chọn đội trưởng khác nhau để đảm nhận và phụ trách những phần việc riêng. Tiếng chuông hết giờ vang lên trong sự háo hức và sôi nổi.

Những khó khăn thực sự bắt đầu.Tôi nhận ra kịch bản mình viết có lẽ đã quá sức. Các bạn không thể nhìn mặt nhau diễn. Sự ngại ngùng hoá thành những tiếng cười. Đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi diễn một vở kịch tại một sự kiện và sân khấu lớn như thế này. Hội diễn quy tụ tất cả các bạn học sinh khối Trung học, có cả phụ huynh và thầy cô giáo trong trường đến dự. Có lẽ vì áp lực quá lớn, những chiều hôm luyện tập, chính tôi cũng không biết mình đã nói từ “Diễn lại” bao nhiêu lần. Thời gian dần bào mòn sức lực của tôi. Các bạn không hiểu ý nhau, không cảm nhận được nội tâm nhân vật, không hiểu kết cấu truyện,…. Cũng lúc ấy, bên phía chuẩn bị trình chiếu xảy ra vấn đề khi chúng tôi không thể nhất quán với nhau. Trong khoảng thời gian ấy, tôi từng muốn buông tất cả, để việc này cứ thế trôi. Dẫu sao, đây chỉ là một cuộc thi mang tính phong trào. Không chấm điểm, không ảnh hưởng đến điểm số. Thế tại sao chúng tôi lại “lao tâm khổ tứ” vì một vở kịch đến thế ???. Lúc ấy, cô Diệu Ly đến gần chúng tôi, động viên nhẹ nhàng:“Các em cố lên, cô tin các em sẽ làm được !”. Chính những lời nói ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi.
Thế rồi, bước ngoặt xảy ra vào một chiều thứ Năm, trước ngày biểu diễn một ngày. Chiều hôm ấy, trong buổi tổng duyệt lại lần cuối cho hội diễn, vào giây phút cao trào, bạn nữ đóng vai mẹ - Ngọc Huyền đã khóc. Từng hàng nước mắt cứ thế tuôn rơi. Rồi cả hội trường im lặng và khóc thôi. Tôi thấy cô tổng phụ trách cũng lau nước mắt. Tôi hiểu điều này có nghĩa là các bạn ấy đã nắm bắt tâm tư nhân vật, hóa thân và đồng cảm trọn vẹn vào nhân vật.Trong khoảnh khắc ấy, tôi cũng cảm nhận được nỗi đau của người vợ mất chồng, người con mất cha sau bao năm tháng chờ đợi, xa cách và hi vọng. Cảm giác ấy như bót nghẹt lấy trái tim từng người trong chúng tôi. Hai hang nước mắt tôi cũng lăn dài trên má, miệng lí nhí “Tốt lắm, tốt lắm, Huyền. Mày làm được rồi!”

Tuy nhiên đời không như là mơ. Tuy diễn xuất của chúng tôi rất tốt, nhưng chúng tôi lại vấp phải một khó khắn khác. Lần đầu đứng trên một sân khấu lớn như vậy, chúng tôi chẳng biết nên đi sân khấu thế nào, chuyển cảnh ra sao. Vở kịch trở thành tình huống lộn xộn, các diễn viên chạy loạn xạ trên trên sân khấu như một trò hề. Các thầy cô đã góp ý cho chúng tôi nhiều điều, những lời góp ý vô cùng đắt giá nhưng chúng tôi vẫn về lớp với tâm trạng ảo não.
Có lẽ, khi thật sự yêu thích một cái gì đó, con người ta sẽ không dễ dàng buông bỏ. Chúng tôi lao đầu vào tập luyện một cách nghiêm túc. Cô Diệu Ly luôn ở bên động viên và cổ vũ chúng tôi. Mặc dù tay chân đau rát, giọng đã khàn đi, năng lượng dần hết, chúng tôi vẫn tự ai ủi “Đây là lần cuối”. Mỗi người chúng tôi đều cố thêm một chút, vì chính mình cũng như vì sự cố gắng của cả lớp.
Đã gần đến hội thi, chúng tôi bắt đầu đi thuê trang phục. Những bộ trang phục ấy khá đơn giản, mang nét làng quê Nam bộ. Cầm trên tay những chiếc ao bà ba, đồ lính, mặt ai cũng tươi cười, tuy phảng phất nét lo lắng nhưng lòng tràn đầy quyết tâm.
Chúng tôi biết lần này không thể thất bại. Cô Diệu Ly biết chúng tôi lo lắng, nên lại an ủi “Cố lên các em, cô biết các em sẽ làm được mà!”. Những lời khen ấy giống như đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi. Thời gian đếm ngược theo từng phút. Hai giờ chiều, hội thi bắt đầu. Chúng tôi diễn vị trí thứ 3 - một vị trí thuận lợi. Vở diễn thứ hai kết thúc, chúng tôi bước vào cánh gà, nhìn nhau với một quyết tâm.Vở diễn trôi chảy, mạch cảm xúc đều được giữ nguyên. Từ bất lực, đau xót đến tiếc thương, đau khổ, kết thúc bằng sức sống mãnh liệt. Tôi - người viết kịch bản cũng cảm thấy người trên sân khấu là ông Sáu, là bé Thu chứ không phải Hạ Phương hay Hoàng Bách.

Nếu lần trước chúng tôi bước lên sân khấu là lo lắng và hoài nghi, thì lần này là quyết tâm và cống hiến.Vì vậy, khi vở kịch khép lại trong lòng tôi chỉ còn vui sướng và mãn nguyện. Tôi trở lại chỗ ngồi và thưởng thức vở kịch tiếp theo.
Đã đến giờ trao giải. Lòng tôi lại bồn chồn không yên. Từng cái tên từ khuyến khích, ba, nhì vang lên – không có chúng tôi. Tôi hồi hộp nhưng cũng có những suy nghĩ táo bạo: “Nhỡ”thì sao? Có lẽ, lần này cá chép cũng có thể hoá rồng.
Khi “Giải Nhất - Lớp 7B” vang lên chúng tôi hét lên ầm trời. Tôi lên bục nhận giải. Khi nhận được cờ khen thưởng và nghe cô hiệu trưởng nói rằng cô đã khóc, tôi rất xúc động. Mục đích mà chúng tôi mang vở kịch này lên đây đã hoàn thành - mục đích truyền tải những thông điệp ý nghĩa.
Lớp chúng tôi cùng chụp ảnh cùng các thầy cô,rồi chụp theo lớp và theo từng nhóm. Cái nắng vàng đang dần khép lại hôm nay. Tôi mang theo cặp sách bước ra ngoài, ngoái cổ nhìn lại lần cuối. Một khoảnh khắc tuyệt đẹp mới đây đã kết thúc, chớp mắt đã thành kỉ niệm.
Với tôi, sân khấu kịch hôm ấy chính là một trong những thời khắc “đáng giá” nhát cuộc đời mình. Dường như mọi khó khăn trước đó đều tan biến. Chúng tôi của ngày hôm ấy sống với mục đích lớn lao hơn “Cống hiến”. Đó là những cột mốc khó phai mà sau này nhiều thứ không thể trả lại cho chúng ta. Tôi thầm cảm ơn cô Diệu Ly, người đã cho chúng tôi cảm hứng, niềm tin, sự động viên, sự tin tưởng, luôn dõi theo và đồng hành để những ước mơ bay xa và những cố gắng của chúng tôi thành hiện thực !

“We only live once”
Nguyễn Mai Hiền - Học sinh lớp 8B







